Phát triển lâm sản ngoài gỗ có chứng chỉ

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của lâm sản ngoài gỗ vì giá trị của chúng là nhẹ, dễ vận chuyển và tái sinh nhanh so với gỗ. Các sản phẩm này cho phép thu hoạch sớm hơn, đảm bảo giá trị kinh tế cao, năng suất ổn định, tiềm năng kinh doanh liên tục, phù hợp với quy mô hộ gia đình và được chấp nhận rộng rãi trong lâm nghiệp. Việc sử dụng hợp lý lâm sản ngoài gỗ vừa nâng cao giá trị hệ sinh thái rừng vừa mang lại lợi ích kinh tế cho trên 25 triệu người sống ở miền núi, trong đó vùng núi phía Bắc khoảng 15 triệu người. Những sản phẩm này được thu hoạch mà không gây tổn hại đáng kể đến rừng hoặc môi trường sinh thái.

Lâm sản ngoài gỗ có vai trò then chốt không chỉ đối với nền kinh tế địa phương mà còn trong đời sống xã hội của các dân tộc sống ở miền núi. Chúng đóng vai trò là đầu vào quan trọng, nguồn thu nhập chính, đan xen sâu sắc vào cuộc sống hàng ngày của họ, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế khu vực, xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường ở vùng lãnh thổ miền núi của chúng ta. Vì vậy, lâm sản ngoài gỗ được coi là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của đất nước, không chỉ góp phần vào sự phát triển trong quá khứ và hiện tại mà còn cả triển vọng trong tương lai.

Tuy nhiên, cho đến nay việc phát triển khai thác, chế biến lâm sản ngoài gỗ vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có do nhiều nguyên nhân.

Theo thống kê khoa học ở Việt Nam, trong khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao, có khoảng 7.000 loài đóng góp vào lâm sản ngoài gỗ, trong đó có 216 loài tre, 56 loài mây, 5.000 loài cây dược liệu, 458 loài dầu, 473 loài nhựa. , 113 loài thực vật thơm, 800 loài cây sản xuất tannin, 93 loài cây sản xuất thuốc nhuộm, 800 loài phong lan và hơn 20 loài ăn được, trong số hàng trăm loài được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau.

Trong thời gian gần đây, Chính phủ và các ngành liên quan ngày càng quan tâm đến việc phát triển nhiều loại lâm sản ngoài gỗ có giá trị cao, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc gia. Lâm sản ngoài gỗ của Việt Nam đã được xuất khẩu tới gần 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, tạo ra doanh thu xuất khẩu khoảng 400-500 triệu USD mỗi năm. Khai thác, chế biến lâm sản ngoài gỗ đã thu hút hàng trăm nghìn lao động, chủ yếu ở nông thôn, miền núi, góp phần quan trọng vào công cuộc giảm nghèo ở các vùng có rừng.

Tuy nhiên, việc phát triển lâm sản ngoài gỗ hiện nay chưa phù hợp với tiềm năng, thế mạnh hiện có, chưa đóng góp đủ vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Ngành lâm nghiệp đề nghị các địa phương có nhiều rừng tăng cường công tác quy hoạch phát triển lâm sản ngoài gỗ, nhất là lâm sản dưới tán rừng phù hợp với từng vùng, dựa trên dự báo của thị trường để tránh tình trạng dư cung, đảm bảo năng suất, chất lượng.

Quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu cần gắn với mạng lưới cơ sở chế biến phù hợp với điều kiện kinh tế – sinh thái cụ thể của từng vùng. Tập trung phát triển lâm sản ngoài gỗ phù hợp với loài, loại rừng cụ thể, tập trung vào rừng tự nhiên. Khuyến nghị tăng tỷ lệ diện tích đất nông lâm kết hợp để tái sinh bền vững, kết hợp với trồng lâm sản ngoài gỗ.

Đến năm 2030, dự kiến ​​diện tích tiềm năng trồng lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng sẽ đạt tối thiểu 200.000 ha, bao gồm ít nhất 20 loài khác nhau. Tầm nhìn này nhằm mục đích thiết lập các vùng nguyên liệu tích hợp với các cơ sở chế biến, xác định các loài thực vật chính có lợi thế trên thị trường.

Về chính sách, cần sớm hoàn thiện và thực thi có hiệu quả một số chính sách liên quan đến phát triển lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt là các chính sách liên quan đến lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng như giao đất, cho thuê đất, tô nhượng để trồng cây dược liệu theo quy định. tán rừng. Các chính sách liên quan khác bao gồm quản lý cây giống lâm sản ngoài gỗ, chính sách đầu tư, hỗ trợ tài chính và chính sách thuế.

Xây dựng chính sách khuyến khích phát triển lâm sản ngoài gỗ đồng thời bảo tồn và duy trì hệ sinh thái rừng là rất quan trọng. Khuyến khích phát triển các làng nghề truyền thống tận dụng lâm sản ngoài gỗ và thúc đẩy hình thành các vùng tập trung lâm sản ngoài gỗ gắn với các cơ sở chế biến cũng rất cần thiết. Đầu tư khoa học, công nghệ, tài chính, nâng cao năng suất, chất lượng trồng trọt, xác định các giống cây lâm sản ngoài gỗ có tính cạnh tranh, phù hợp với điều kiện của từng vùng kinh tế – sinh thái nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và tính bền vững của rừng trồng để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu công nghiệp.

Nhấn mạnh việc phát triển các dòng sản phẩm mới là điều cần thiết. Ngoài việc nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới công nghệ, thiết bị khai thác, sơ chế, sản xuất, bảo quản lâm sản ngoài gỗ, cần đa dạng hóa sản phẩm để tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế. Xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng lâm sản ngoài gỗ, thực hiện các chính sách đào tạo, nâng cao năng lực cho người sản xuất trong quá trình sản xuất, quản lý chất lượng và thành lập các tổ chức chứng nhận sản phẩm tại địa phương là những vấn đề quan trọng.

Phát triển thương mại, xúc tiến thị trường, tích cực tìm kiếm thông tin thị trường, tăng cường tiếp thị sản phẩm thông qua hội chợ, sản phẩm du lịch, website, hội thảo… để tìm hiểu thị trường mới. Xây dựng thương hiệu để thâm nhập thị trường quốc tế và thành lập các hiệp hội, hợp tác xã, tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp chế biến và người sản xuất nguyên liệu thông qua các tổ hợp tác, hợp tác xã.

Tiến sĩ Vũ Thị Quế Anh, đại diện FSC tại Việt Nam công bố tiêu chuẩn quản lý lâm sản ngoài gỗ của Hội đồng Quản lý Rừng tại Việt Nam. Các tổ chức hiện có thể đạt được chứng nhận FSC cho các lâm sản ngoài gỗ như tre, mây, cây thuốc, các loài chứa nhựa, các loài chứa dầu, cây thơm, cây sản xuất tannin, cây sản xuất thuốc nhuộm, hoa lan, v.v. Sáng kiến ​​này nhằm mục đích thúc đẩy lâm nghiệp có trách nhiệm trên toàn cầu bằng cách đảm bảo trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường và bền vững kinh tế. Tiêu chuẩn này có hiệu lực vào ngày 15 tháng 10 năm 2023.

FSC (Hội đồng quản lý rừng) là một tổ chức phi chính phủ được thành lập năm 1993 để phát triển và quản lý rừng bền vững trên toàn thế giới. Chứng chỉ FSC là chứng chỉ bảo vệ rừng do FSC cấp. Nó được sử dụng để các nhà quản lý rừng và nhà sản xuất lâm sản nhằm thúc đẩy và quản lý rừng bền vững thông qua việc khai thác, chế biến và sử dụng lâm sản một cách có trách nhiệm. Sở hữu chứng chỉ FSC đồng nghĩa với việc chứng minh cho khách hàng, đối tác thấy doanh nghiệp tuân thủ tiêu chuẩn FSC trên toàn bộ hệ thống quản lý của mình.

Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST), tại Việt Nam, lâm sản ngoài gỗ gồm mây, tre, măng, cây ăn được, cây ăn quả, cây làm thuốc có tiềm năng rất lớn để các tổ chức, cộng đồng tạo ra. nguồn thu bổ sung từ tài nguyên rừng, đặc biệt khi xem xét lệnh cấm khai thác gỗ do chính phủ áp đặt từ năm 2013.

Phát triển các phương pháp khai thác lâm sản ngoài gỗ bền vững và tiếp cận thị trường quốc tế với chứng nhận FSC sẽ tác động tích cực đến sinh kế của người dân nông thôn. Tiêu chuẩn này sẽ giúp tháo gỡ các nút thắt và tăng cường nguồn cung lâm sản ngoài gỗ được chứng nhận FSC như tre, mây, nhựa tự nhiên cộng đồng/rừng và mủ cao su từ các đồn điền cao su, những mặt hàng đang có nhu cầu ngày càng tăng ở Việt Nam. Sáng kiến ​​này cũng sẽ hỗ trợ quản lý rừng bền vững và nâng cao giá trị của rừng.

Việc thực hiện các tiêu chuẩn FSC cho lâm sản ngoài gỗ sẽ mang lại nhiều lợi ích cho chủ sở hữu chứng chỉ, bao gồm khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường tốt hơn, nâng cao hình ảnh và vị thế trên thị trường, sử dụng nhãn FSC cho mục đích thương mại và tiếp thị các sản phẩm được sản xuất có trách nhiệm. Vì vậy, nỗ lực này sẽ nâng cao đáng kể giá trị lâm sản ngoài gỗ từ các vùng sản xuất, chế biến, hội nhập chặt chẽ hơn với thông lệ thương mại quốc tế, góp phần quan trọng vào sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế lâm nghiệp.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *